Mở bài nghị luận văn học không chỉ là cánh cửa dẫn dắt người đọc vào thế giới của tác phẩm, mà còn là nơi khơi nguồn cảm xúc, gợi mở tư duy và tạo ấn tượng sâu sắc với người chấm thi. Một mở bài hay, dù trực tiếp hay gián tiếp, luôn cần sự tinh tế, tự nhiên và giàu cảm xúc để biến những dòng đầu tiên thành điểm sáng cho cả bài văn.
Dưới đây là hướng dẫn mở bài chung nghị luận văn học cho các tác phẩm trong chương trình lớp 9 và lớp 12. Bài viết này sẽ mang đến các mẫu mở bài tinh tế, giàu cảm xúc cho những tác phẩm thơ và truyện ngắn quen thuộc, thường xuyên xuất hiện trong các kỳ thi cấp 3 và THPT, giúp bạn tự tin chinh phục mọi đề bài với những khởi đầu ấn tượng.
Cách viết mở bài hay cho đề thi nghị luận văn học
Mở bài nghị luận văn học theo cách trực tiếp
Mở bài trực tiếp là cách tiếp cận thẳng thắn, đưa người đọc ngay vào trọng tâm vấn đề cần nghị luận. Người viết giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài văn, tạo sự rõ ràng và mạch lạc. Phương pháp này đặc biệt phù hợp khi thời gian làm bài hạn chế hoặc đề bài yêu cầu phân tích một khía cạnh cụ thể, bởi nó giúp tiết kiệm thời gian và tránh lan man.
Tuy nhiên, nếu không khéo léo sử dụng ngôn ngữ tự nhiên và cuốn hút, mở bài trực tiếp dễ trở nên khô khan, thiếu sức sống. Để thành công, học sinh cần chú ý diễn đạt sao cho súc tích nhưng vẫn giàu cảm xúc, tránh rơi vào lối viết công thức hóa.
Tác phẩm phù hợp
Mở bài trực tiếp lý tưởng cho các tác phẩm có nội dung rõ ràng, tập trung vào một khía cạnh cụ thể. Các tác phẩm nên áp dụng:
- Lớp 9: “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng) – phân tích tình cha con; “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) – phân tích vẻ đẹp lao động thầm lặng; “Bến quê” (Nguyễn Minh Châu) – phân tích giá trị nhân sinh; “Cô bé bán diêm” (Andersen) – phân tích giá trị nhân đạo.
- Lớp 12: “Tây Tiến” (Quang Dũng) – phân tích hình tượng người lính; “Sóng” (Xuân Quỳnh) – phân tích hình tượng sóng và tình yêu; “Ông già và biển cả” (Hemingway) – phân tích ý chí con người; “Số phận con người” (Sô-lô-khốp) – phân tích số phận cá nhân trong chiến tranh.
Mở bài nghị luận văn học theo cách gián tiếp
Mở bài gián tiếp là nghệ thuật dẫn dắt tinh tế, khơi gợi sự tò mò của người đọc trước khi chạm đến vấn đề chính. Người viết bắt đầu bằng một ý tưởng liên quan – có thể là chủ đề, bối cảnh lịch sử, sự so sánh hay một nhận định sâu sắc – rồi mới khéo léo giới thiệu tác phẩm và nội dung nghị luận. Phương pháp này mang lại sự linh hoạt, sáng tạo, giúp bài văn trở nên hấp dẫn và giàu chiều sâu.
Tuy nhiên, nó đòi hỏi học sinh có vốn kiến thức phong phú và khả năng liên hệ chặt chẽ, bởi nếu dẫn dắt lan man hoặc không liên quan, mở bài dễ lạc hướng. Để thành công, phần dẫn dắt cần ngắn gọn, ý nghĩa và gắn bó mật thiết với đề bài, tạo nên một hành trình cảm xúc mượt mà.
Mở bài dẫn dắt từ chủ đề hoặc đề tài
Khởi đầu bằng một khái quát về chủ đề của tác phẩm, như tình yêu, quê hương hay lý tưởng sống, rồi dẫn dắt đến tác phẩm cụ thể, tạo sự gần gũi và gợi mở.
- Tác phẩm phù hợp:
- Lớp 9: “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải) – dẫn từ khát vọng cống hiến; “Bếp lửa” (Bằng Việt) – dẫn từ tình cảm gia đình và quê hương; “Khúc hát sông quê” (Nguyễn Trọng Tạo) – dẫn từ tình yêu quê hương.
- Lớp 12: “Sóng” (Xuân Quỳnh) – dẫn từ tình yêu đôi lứa; “Việt Bắc” (Tố Hữu) – dẫn từ tình yêu quê hương, đất nước; “Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm) – dẫn từ lòng tự hào dân tộc.
Mở bài dẫn dắt từ giai đoạn lịch sử hoặc bối cảnh xã hội
Mở đầu bằng bối cảnh lịch sử, xã hội hoặc thời kỳ văn học liên quan, từ đó giới thiệu tác phẩm và vấn đề, giúp gắn kết hiện thực với ý nghĩa của tác phẩm.
- Tác phẩm phù hợp:
- Lớp 9: “Đồng chí” (Chính Hữu) – dẫn từ bối cảnh kháng chiến chống Pháp; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật) – dẫn từ tinh thần lạc quan trong chiến tranh; “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê) – dẫn từ cuộc sống hậu phương trong kháng chiến chống Mỹ.
- Lớp 12: “Việt Bắc” (Tố Hữu) – dẫn từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp; “Tây Tiến” (Quang Dũng) – dẫn từ cuộc kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng; “Số phận con người” (Sô-lô-khốp) – dẫn từ hậu quả của Thế chiến thứ hai.
Mở bài dẫn dắt bằng cách so sánh
So sánh các tác giả, tác phẩm hoặc nhân vật ở điểm tương đồng hoặc khác biệt, rồi dẫn vào vấn đề nghị luận, tạo sự thú vị và chiều sâu.
- Tác phẩm phù hợp:
- Lớp 9: “Bếp lửa” (Bằng Việt) – so sánh với “Khúc hát sông quê” (Nguyễn Trọng Tạo) về tình yêu quê hương; “Đồng chí” (Chính Hữu) – so sánh với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật) về hình tượng người lính; “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) – so sánh với “Bến quê” (Nguyễn Minh Châu) về giá trị nhân sinh.
- Lớp 12: “Tây Tiến” (Quang Dũng) – so sánh với “Việt Bắc” (Tố Hữu) về hình tượng người lính; “Sóng” (Xuân Quỳnh) – so sánh với “Tràng giang” (Huy Cận, lớp 11) về cảm xúc nội tâm; “Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm) – so sánh với “Việt Bắc” (Tố Hữu) về tình yêu đất nước.
Mở bài dẫn dắt từ một nhận định hoặc nhận xét
Trích dẫn một nhận định của nhà phê bình, nhà văn hoặc ý kiến liên quan, rồi dẫn vào vấn đề, tạo sự uy tín và gợi mở tư duy.
- Tác phẩm phù hợp:
- Lớp 9: “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) – dẫn từ nhận xét về vẻ đẹp lao động thầm lặng; “Sang thu” (Hữu Thỉnh) – dẫn từ nhận định về sự tinh tế trong cảm nhận thiên nhiên; “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương) – dẫn từ nhận xét về lòng biết ơn Bác Hồ.
- Lớp 12: “Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm) – dẫn từ nhận định về tình yêu đất nước trong thơ ca hiện đại; “Tây Tiến” (Quang Dũng) – dẫn từ nhận xét về chất bi tráng trong thơ kháng chiến; “Ông già và biển cả” (Hemingway) – dẫn từ nhận định về ý chí kiên cường của con người.
Tham khảo thêm 50 Mẫu Viết Đoạn Văn Mở Bài Nghị Luận Xã Hội Hay, Đạt Điểm Cao Nhất và Hướng dẫn viết bài văn nghị luận xã hội dễ ăn điểm thi 2025 để chuẩn bị thật tốt cho các kỳ thi quan trọng sắp tới.

11 Mẫu mở bài nghị luận văn học chủ đề mở bài phân tích thơ
“Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải) – Dẫn từ chủ đề
Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca, gợi lên sức sống mãnh liệt và khát vọng cống hiến cho đời. Ở đó, ta bắt gặp những tâm hồn thơ thiết tha với quê hương, đất nước, luôn mong góp một phần nhỏ bé để tô điểm cho cuộc sống. Thanh Hải, trong những năm tháng cuối đời, đã gửi gắm tâm nguyện ấy qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
Với hình ảnh mùa xuân tươi đẹp và giai điệu nhẹ nhàng, tác phẩm khắc họa khát vọng sống ý nghĩa, hòa mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của nhà thơ mà còn là lời nhắn nhủ sâu sắc về trách nhiệm và lý tưởng của mỗi con người.
“Bếp lửa” (Bằng Việt) – Dẫn từ so sánh
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, tình yêu quê hương, gia đình luôn được các nhà thơ khắc họa bằng những hình ảnh giản dị mà sâu sắc. Nếu Nguyễn Trọng Tạo trong “Khúc hát sông quê” gợi nhắc tình quê qua dòng sông lấp lánh, thì Bằng Việt lại chọn hình ảnh bếp lửa ấm áp để gửi gắm ký ức và cảm xúc.
Bài thơ “Bếp lửa” của ông là một khúc ca về tình bà cháu, về những năm tháng khó khăn nhưng tràn đầy yêu thương. Qua hình tượng bếp lửa, tác giả không chỉ tái hiện kỷ niệm tuổi thơ mà còn khắc họa sức mạnh của tình cảm gia đình, trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc giữa dòng đời. Tác phẩm như một lời nhắc nhở về giá trị của những điều bình dị trong cuộc sống.
“Khúc hát sông quê” (Nguyễn Trọng Tạo) – Dẫn từ chủ đề
Quê hương là tiếng gọi thiết tha trong trái tim mỗi người, là nơi lưu giữ những ký ức đẹp đẽ và bền vững nhất. Từ cánh đồng lúa thơm, con sông lững lờ đến những buổi chiều tà, quê hương luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Nguyễn Trọng Tạo, với tâm hồn nhạy cảm, đã viết nên bài thơ “Khúc hát sông quê” như một bản nhạc trữ tình về tình yêu quê hương.
Qua hình ảnh dòng sông quê và những con người lam lũ, tác phẩm không chỉ gợi lên vẻ đẹp bình dị của làng quê Việt Nam mà còn gửi gắm nỗi niềm trăn trở về những đổi thay của thời đại. Bài thơ là lời mời gọi ta trân trọng và gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu.
“Đồng chí” (Chính Hữu) – Dẫn từ bối cảnh lịch sử
Giữa khói lửa của cuộc kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính Việt Nam hiện lên giản dị mà cao cả, mang trong mình tình yêu nước và tinh thần đồng đội. Những năm tháng gian khổ ấy đã trở thành nguồn cảm hứng để các nhà thơ khắc họa chân dung người lính với tất cả vẻ đẹp tâm hồn.
Chính Hữu, trong bài thơ “Đồng chí”, đã tái hiện sống động tình đồng chí, đồng đội của những người nông dân áo vải. Qua hình ảnh chân thực và ngôn ngữ mộc mạc, tác phẩm không chỉ ca ngợi tình cảm gắn bó keo sơn mà còn làm sáng lên lý tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc. Bài thơ là một khúc ca bất hủ về tình người trong gian khó.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật) – Dẫn từ so sánh
Trong thơ ca kháng chiến, người lính hiện lên với nhiều cung bậc cảm xúc, từ giản dị, kiên cường đến lạc quan, yêu đời. Nếu Chính Hữu trong “Đồng chí” khắc họa tình đồng đội qua những phút giây tĩnh lặng, thì Phạm Tiến Duật lại mang đến hình ảnh người lính lái xe đầy trẻ trung, ngang tàng trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Tác phẩm là một bức tranh sống động về cuộc sống chiến trường, nơi những chiếc xe không kính trở thành biểu tượng cho tinh thần bất khuất. Qua ngôn ngữ độc đáo và giọng điệu hóm hỉnh, nhà thơ không chỉ ca ngợi lòng dũng cảm mà còn làm nổi bật tâm hồn lạc quan của thế hệ trẻ Việt Nam. Bài thơ như một khúc nhạc vui tươi giữa khói lửa chiến tranh.
“Sang thu” (Hữu Thỉnh) – Dẫn từ nhận định
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét rằng thơ Việt Nam luôn mang trong mình sự tinh tế khi cảm nhận những biến chuyển của đất trời và lòng người. Hữu Thỉnh, với tâm hồn nhạy cảm, đã thể hiện điều đó qua bài thơ “Sang thu”, một bức tranh thu đẹp và sâu lắng. Tác phẩm ghi lại khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu, nơi thiên nhiên và tâm trạng con người hòa quyện.
Qua những hình ảnh thơ mộng và ngôn ngữ giàu cảm xúc, nhà thơ không chỉ vẽ nên vẻ đẹp của mùa thu mà còn gợi lên những suy ngẫm về sự trưởng thành, về những đổi thay trong cuộc đời. Bài thơ là lời thì thầm dịu dàng, mời gọi ta chậm lại để cảm nhận cuộc sống.
“Viếng lăng Bác” (Viễn Phương) – Dẫn từ nhận định
Nhà thơ Tố Hữu từng nói rằng tình yêu dành cho Bác Hồ là nguồn cảm hứng bất tận, thắp sáng trái tim mỗi người Việt Nam. Trong dòng chảy ấy, Viễn Phương đã viết nên bài thơ “Viếng lăng Bác” như một khúc ca lòng thành kính và biết ơn.
Tác phẩm là hành trình của một người con từ miền Nam ra thăm lăng Bác, mang theo nỗi xúc động sâu sắc trước sự ra đi của Người. Qua hình ảnh thơ giản dị mà thiêng liêng, tác giả không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương mà còn khắc họa tình cảm của cả dân tộc dành cho vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ như một nén hương thơm, dâng lên Bác với tất cả sự trân trọng và yêu mến.
“Sóng” (Xuân Quỳnh) – Dẫn từ chủ đề
Tình yêu là ngọn gió thổi qua trái tim, làm rung lên những giai điệu ngọt ngào trong thơ ca mọi thời đại. Từ những cung bậc cảm xúc mãnh liệt đến dịu dàng, tình yêu luôn là bí ẩn cuốn hút các thi nhân khám phá. Xuân Quỳnh, với tâm hồn nhạy cảm và trái tim phụ nữ nồng nàn, đã viết nên bài thơ “Sóng” để diễn tả những trạng thái của tình yêu.
Qua hình tượng sóng, tác phẩm không chỉ khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu mà còn thể hiện khát vọng vĩnh cửu của tình yêu chân thành. Bài thơ là một bản nhạc tình, ngân vang những giai điệu vừa sôi nổi vừa sâu lắng, chạm đến trái tim người đọc.
“Việt Bắc” (Tố Hữu) – Dẫn từ bối cảnh lịch sử
Khi cách mạng tháng Tám thành công, đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian lao nhưng cũng rực rỡ lý tưởng. Trong những năm tháng ấy, Việt Bắc – cái nôi của cách mạng – đã trở thành biểu tượng của tình yêu quê hương, đất nước. Tố Hữu, với ngòi bút trữ tình chính trị, đã viết nên bài thơ “Việt Bắc” như một khúc ca ân tình sâu đậm.
Tác phẩm là lời đối đáp giữa người ra đi và người ở lại, gợi nhắc những kỷ niệm đẹp về vùng đất cách mạng. Qua ngôn ngữ ngọt ngào và hình ảnh thơ giàu cảm xúc, nhà thơ không chỉ ca ngợi tình quân dân mà còn khẳng định sức mạnh của lòng trung thành với Tổ quốc.
“Tây Tiến” (Quang Dũng) – Dẫn từ nhận định
Nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận định rằng thơ kháng chiến Việt Nam là nơi hội tụ của chất bi tráng, nơi con người vượt qua gian khổ để tỏa sáng lý tưởng. Quang Dũng, với tâm hồn lãng mạn và hào hoa, đã thể hiện điều đó qua bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm là một khúc tráng ca về đoàn quân Tây Tiến, những người lính trẻ mang trong mình tinh thần bất khuất và tâm hồn nghệ sĩ.
Qua bút pháp lãng mạn và hình ảnh thơ hùng tráng, nhà thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người lính mà còn gợi lên tình yêu nước sâu sắc. Bài thơ như một ngọn lửa, thắp sáng ký ức về một thời hào hùng của dân tộc.
“Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm) – Dẫn từ nhận định
Nhà phê bình văn học từng khẳng định rằng tình yêu đất nước trong thơ ca Việt Nam luôn mang sức mạnh gắn kết quá khứ với hiện tại, truyền thống với tương lai. Nguyễn Khoa Điềm, trong bài thơ “Đất nước”, đã thể hiện sâu sắc tinh thần ấy qua góc nhìn độc đáo của thế hệ trẻ “Đất nước” là một bản trường ca về cội nguồn và bản sắc dân tộc, nơi đất nước hiện lên gần gũi, thân thương qua những hình ảnh bình dị.
Với giọng điệu trữ tình và tư duy triết lý, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của đất nước mà còn khơi dậy niềm tự hào dân tộc trong mỗi người đọc. Tác phẩm là lời nhắc nhở về trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa quý báu.

9 Mẫu mở bài nghị luận văn học chủ đề mở bài phân tích truyện ngắn
“Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng) – Dẫn trực tiếp
Trong kho tàng văn học Việt Nam, những câu chuyện về tình cảm gia đình luôn chạm đến trái tim người đọc bởi sự chân thành và sâu sắc. Nguyễn Quang Sáng, với ngòi bút giàu cảm xúc, đã viết nên truyện ngắn “Chiếc lược ngà” – một tác phẩm đong đầy yêu thương giữa cha và con trong bối cảnh chiến tranh.
Câu chuyện về ông Sáu và bé Thu không chỉ khắc họa tình phụ tử thiêng liêng mà còn làm nổi bật những mất mát, hy sinh của con người trong thời chiến. Qua ngòi bút giản dị mà thấm đẫm cảm xúc, tác giả đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về giá trị của tình thân. Truyện ngắn là một lời nhắc nhở ta trân trọng những phút giây bên gia đình, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
“Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) – Dẫn từ nhận định
Nhà văn Nam Cao từng nói rằng nghệ thuật chân chính luôn tìm kiếm vẻ đẹp trong những điều giản dị của cuộc sống. Nguyễn Thành Long, với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, đã thể hiện điều đó qua câu chuyện về những con người thầm lặng cống hiến trên vùng cao Tây Bắc.
Nhân vật anh thanh niên, với công việc cô đơn giữa núi rừng, hiện lên như một biểu tượng của lý tưởng sống cao đẹp. Qua ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng, tác phẩm không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của lao động mà còn gợi lên những suy ngẫm về ý nghĩa của sự cống hiến âm thầm. Truyện ngắn như một làn gió mát lành, làm dịu đi những xô bồ của cuộc sống hiện đại.
“Bến quê” (Nguyễn Minh Châu) – Dẫn từ so sánh
Trong văn xuôi Việt Nam, nếu Kim Lân khiến ta xúc động bởi khát vọng hạnh phúc giữa nghèo khó trong “Vợ nhặt”, thì Nguyễn Minh Châu lại dẫn ta vào những trăn trở sâu sắc về ý nghĩa cuộc đời qua “Bến quê”. Truyện ngắn kể về hành trình của ông Nhĩ, một người đàn ông nhận ra giá trị của những điều bình dị khi đứng trước lằn ranh sinh tử.
Qua ngòi bút tinh tế, tác giả khắc họa những nghịch lý của đời người, nơi con người thường chạy theo những điều xa xôi mà quên mất hạnh phúc gần gũi. Tác phẩm là lời nhắc nhở ta chậm lại, để cảm nhận và trân trọng những giá trị giản đơn trong cuộc sống. “Bến quê” như một dòng sông êm đềm, chảy vào lòng người đọc những suy tư sâu lắng.
“Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê) – Dẫn từ bối cảnh lịch sử
Giữa khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, những cô gái thanh niên xung phong đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh. Trong bối cảnh ấy, Lê Minh Khuê đã viết nên truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”, khắc họa sống động cuộc sống của ba cô gái trẻ trên tuyến đường Trường Sơn.
Câu chuyện về Định, Nho và Thao không chỉ tái hiện những hiểm nguy của chiến tranh mà còn làm nổi bật tâm hồn trong trẻo, lạc quan của họ. Qua ngòi bút chân thực và giàu cảm xúc, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam, những người sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Tác phẩm như một ánh sao lấp lánh, soi sáng lý tưởng và lòng yêu nước.
“Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) – Dẫn từ bối cảnh lịch sử
Trong những năm trước Cách mạng tháng Tám, khi xã hội Việt Nam chìm trong bóng tối của nghèo đói và bế tắc, những tâm hồn nhạy cảm vẫn tìm kiếm ánh sáng của hy vọng. Thạch Lam, với ngòi bút hiện thực pha lãng mạn, đã viết nên “Hai đứa trẻ”, một bức tranh tinh tế về cuộc sống nơi phố huyện nghèo nàn.
Qua câu chuyện về hai chị em Liên và An, tác phẩm khắc họa nỗi buồn man mác trước hiện thực tù đọng và khát khao mơ hồ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Với giọng văn nhẹ nhàng mà thấm thía, Thạch Lam không chỉ phản ánh số phận con người trong xã hội cũ mà còn gợi lên những suy ngẫm sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống. Truyện ngắn như một ngọn đèn dầu leo lét, soi sáng những góc khuất của tâm hồn.
“Chí Phèo” (Nam Cao) – Dẫn từ trực tiếp
Trong dòng chảy văn học hiện thực Việt Nam, Nam Cao luôn là ngọn bút sắc sảo, dám nhìn thẳng vào những góc tối của xã hội để phơi bày bi kịch con người. “Chí Phèo”, một kiệt tác của ông, là câu chuyện đau lòng về một người nông dân lương thiện bị xã hội phong kiến đẩy vào con đường tha hóa. Qua nhân vật Chí Phèo, tác phẩm không chỉ lên án sự tàn bạo của chế độ bất công mà còn khắc họa khát khao được sống như một con người thực sự.
Với ngòi bút hiện thực sắc lạnh nhưng đong đầy cảm xúc, Nam Cao đã để lại những dư âm day dứt trong lòng người đọc. “Chí Phèo” là tiếng kêu cứu của những kiếp người bị vùi dập, đồng thời là lời khẳng định về nhân tính bất diệt.
“Vợ nhặt” (Kim Lân) – Dẫn từ so sánh
Nếu Nguyễn Minh Châu trong “Bến quê” khiến ta suy ngẫm về những giá trị giản dị bị lãng quên, thì Kim Lân, với “Vợ nhặt”, lại lay động trái tim bằng khát vọng hạnh phúc giữa lằn ranh của cái đói. Trong bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, truyện ngắn kể về anh Tràng “nhặt” được vợ trong hoàn cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng.
Qua câu chuyện đầy bất ngờ, Kim Lân không chỉ khắc họa số phận con người trong cơn bĩ cực mà còn làm sáng lên sức mạnh của tình người và niềm tin vào tương lai. Với ngòi bút giàu chất nhân văn, tác phẩm như một đốm lửa nhỏ, sưởi ấm những tâm hồn giữa cảnh đời lạnh lẽo. “Vợ nhặt” là bài ca về sự sống, vang lên giữa những đau thương của thời đại.
“Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) – Dẫn từ bối cảnh lịch sử
Trong những năm tháng Tây Bắc chìm trong ách thống trị của chế độ phong kiến miền núi, số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ, bị đè nén dưới gánh nặng của cường quyền và hủ tục. Tô Hoài, với ngòi bút sắc sảo và trái tim nhân hậu, đã viết nên “Vợ chồng A Phủ”, một câu chuyện cảm động về cuộc đời Mị và A Phủ.
Tác phẩm không chỉ phơi bày hiện thực tàn khốc của xã hội bất công mà còn làm sáng lên sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do trong tâm hồn con người. Qua giọng văn chân thực và giàu cảm xúc, Tô Hoài đã khắc họa hành trình từ đau khổ đến ánh sáng của những con người nhỏ bé nhưng đầy nghị lực. Truyện ngắn như một ngọn gió núi, thổi vào lòng người đọc niềm tin vào sự đổi thay.
“Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) – Dẫn từ nhận định
Nhà văn Nguyễn Tuân từng khẳng định rằng văn học cách mạng Việt Nam luôn mang sức mạnh của những khúc tráng ca, nơi con người và thiên nhiên hòa quyện trong lý tưởng cao đẹp. Nguyễn Trung Thành, với “Rừng xà nu”, đã thể hiện điều đó qua bức tranh hùng tráng về cuộc kháng chiến của dân tộc Tây Nguyên.
Tác phẩm kể về làng Xô Man, nơi những con người kiên cường như cụ Mết, Tnú và những cây xà nu bất khuất đối diện với kẻ thù. Qua hình tượng rừng xà nu và số phận con người, nhà văn không chỉ ca ngợi tinh thần bất khuất mà còn khẳng định sức mạnh của tập thể trong cuộc đấu tranh giành tự do. Truyện ngắn là một bản anh hùng ca, vang vọng khí thế hào hùng của một thời đại.